Trung Quốc đã là thị trường nhập khẩu tinh bột lớn nhất thế giới từ năm 2002, vượt Nhật Bản trở thành thị trường nhập khẩu tinh bột biến tính lớn nhất thế giới từ năm 2019. Sau khi mở cửa nền kinh tế được gần 50 năm, Trung Quốc vươn lên dẫn đầu thế giới trong rất nhiều ngành nghề, kể cả chế biến thực phẩm.
Các doanh nghiệp công nghệ sinh học và thực phẩm của Trung Quốc đã nghiên cứu thành công các loại tinh bột biến tính phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nếu năng lực nghiên cứu và sản xuất tinh bột biến tính chất lượng cao của Trung Quốc ngang bằng hoặc vượt các nhà sản xuất tinh bột biến tính hàng đầu thế giới như Thái Lan, Hoa Kỳ, và châu Âu, doanh nghiệp Trung Quốc cần hợp tác với Việt Nam để tận dụng hai yếu tố thuận lợi là nguyên liệu sắn giá rẻ, vị trí địa lý thuận lợi; và đạt được bốn lợi ích là tăng lợi nhuận, mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu Thái Lan, và cạnh tranh với Thái Lan.
Trước khi đọc nghiên cứu này, xin quý vị đọc nghiên cứu Vì sao ngành tinh bột Thái Lan thành công để hiểu rõ về sự liên minh giữa Thái Lan và Nhật Bản trong suốt 50 năm qua.
Dữ liệu cho thấy Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu đáng kể tinh bột sắn từ năm 1999, với giá trị khoảng 19 triệu USD. Từ đó đến nay, trong hơn 20 năm, giá trị nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng lên mức 2,3 tỷ USD, tương đương với mức tăng gấp 121 lần.
Trong suốt thời gian dài hơn 20 năm này, Việt Nam luôn là nhà cung cấp lớn nhất cho Trung Quốc, chiếm khoảng 60% thị trường, trong khi Thái Lan đứng thứ hai với khoảng 40% thị trường.
Tuy nhiên khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan đang dần bị thu hẹp từ năm 2013, có những thời điểm xuất khẩu của Thái Lan vào Trung Quốc đã vượt xa Việt Nam như năm 2014, 2018, 2021, và 2022.
Như vậy có thể thấy rằng, trong cuộc đua xuất khẩu tinh bột sắn giữa Việt Nam và Thái Lan, Thái Lan đang cạnh tranh mạnh mẽ hơn, nhờ lợi thế về chất lượng bột và các tiêu chuẩn quốc tế quan trọng.
Việt Nam dù có lợi thế địa lý sát biên giới với Trung Quốc và giá thành cạnh tranh hơn, nhưng đang đứng trước nguy cơ thất thế trước sự cạnh tranh khốc liệt của các nhà sản xuất Thái Lan có công nghệ sản xuất tiên tiến hơn.
Nguyên nhân do các doanh nghiệp Thái Lan sở hữu dây chuyền và máy móc tiên tiến, đặc biệt là các liên doanh Thái – Nhật, trong khi đa phần các doanh nghiệp Việt Nam còn sử dụng máy móc cũ và công nghệ lạc hậu.
Trong cuộc đua này, người hưởng lợi lớn nhất là các nhà sản xuất Thái Lan. Tuy nhiên các doanh nghiệp Trung Quốc có thể sẽ lo ngại trước sự phụ thuộc ngày càng lớn từ nhập khẩu Thái Lan, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc được hưởng lợi nhiều hơn khi bắt tay với các doanh nghiệp của Việt Nam.
Số liệu cho thấy Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu đáng kể tinh bột biến tính từ khoảng năm 1999. Trong suốt thời gian từ đó đến nay, Thái Lan luôn đóng vai trò là nhà cung cấp chính khi chiếm từ 40% đến 50% thị trường Trung Quốc. Trong khi Việt Nam gần như không có sự hiện diện đáng kể nào cho tới năm 2016, khi xuất khẩu tinh bột biến tính của Việt Nam vào Trung Quốc lần đầu vượt mốc 10 triệu USD.
Từ năm 2017, xuất khẩu tinh bột biến tính của Việt Nam tăng trưởng vượt bậc, vươn lên vị trí nhà cung cấp lớn thứ 2 cho Trung Quốc. Năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu tổng giá trị 109 triệu USD, chiếm 22,3% thị trường Trung Quốc. Cũng trong giai đoạn này, thị phần của Thái Lan cũng giảm từ mức trung bình trên 50% xuống còn chỉ hơn 40%.
Như vậy, rất có thể Trung Quốc đã nghiên cứu và phát triển thành công trong việc làm chủ các công nghệ sản xuất tinh bột biến tính, họ có thể đã hợp tác với một số doanh nghiệp của Việt Nam với mục địch giảm sự phụ thuộc vào Thái Lan và gia tăng lợi nhuận từ việc hợp tác với Việt Nam.
Do Trung Quốc không phải quốc gia xuất khẩu tinh bột sắn, chúng ta sẽ không phân tích về xuất khẩu tinh bột sắn của Trung Quốc trong nghiên cứu này.
Đánh giá dữ liệu nhập khẩu của Trung Quốc ở phần trên, chúng ta phần nào có thể cảm nhận được Trung Quốc đang dần giảm phụ thuộc vào nhập khẩu tinh bột biến tính từ Thái Lan, tăng nhập khẩu từ Việt Nam. Điều này chứng minh công nghệ chế biến tinh bột biến tính của Trung Quốc đã có nhiều thành quả. Nếu nhìn vào xuất khẩu của Trung Quốc, chúng ta cũng có thể phần nào đánh giá về năng lực sản xuất tinh bột biến tính của Trung Quốc hiện tại ra sao.
2.2.1. Sự tăng trưởng vượt bậc của Trung Quốc
Trung Quốc từ một quốc gia chưa có tên trong bản đồ tinh bột biến tính thế giới, chỉ sau một thời gian ngắn đã vươn lên mạnh mẽ trở thành quốc gia xuất khẩu đứng thứ 6 thế giới trong năm 2022. Điều này cho thấy ngành sản xuất tinh bột biến tính của Trung Quốc đã phát triển vượt bậc, các sản phẩm của Trung Quốc đã được đón nhận tại nhiều quốc gia, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
2.2.2. Vấp phải sự cạnh tranh của Thái Lan
Giai đoạn trước 2013, tinh bột biến tính của Trung Quốc từng rất được ưa chuộng tại nhiều quốc gia châu Á. Đặc biệt, Trung Quốc từng chiếm tới 32% thị trường Hàn Quốc. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng từng là thị trường quan trọng của Trung Quốc khi hai nước này chiếm tới gần 50% tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc. Tuy nhiên, sau năm 2013, xuất khẩu của Trung Quốc vào các quốc gia này chậm lại, nhường chỗ cho sản phẩm tinh bột biến tính từ Thái Lan.
2.2.3. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu
Giai đoạn trước năm 2013, xuất khẩu tinh bột biến tính của Trung Quốc dựa vào hai thị trường quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc (chiếm hơn 50% giá trị xuất khẩu). Đến nay Trung Quốc đã đa dạng hoá thị trường, trong đó các thị trường chủ lực của Trung Quốc hiện nay là Nga (35,8%), Hoa Kỳ (9,26%), Indonesia (8,56%), Malaysia (4%), Australia (3,06%).
2.2.4. Thống trị thị trường Nga
Do ảnh hưởng từ cuộc xung đột Nga – Ukraine ngày 24/2/2022, nước Nga bắt buộc phải tìm một nhà cung cấp thay thế cho các đối tác châu Âu. Trước lệnh cấm vận, Trung Quốc trở thành nhà cung cấp tinh bột biến tính chính cho Nga. Điều này đặt ra câu hỏi:
– Xuất khẩu từ Trung Quốc vào Nga có là vỏ bọc để tránh lệnh cấm vận từ các quốc gia châu Âu không? điều này khó có thể xảy ra khi dữ liệu nhập khẩu của Trung Quốc không tăng đáng kể trong năm 2022.
– Liệu chất lượng tinh bột biến tính của Trung Quốc có đủ khả năng thay thế các nhà cung cấp châu Âu hay không?
– Cơ hội này có là động lực giúp Trung Quốc sản xuất ra các sản phẩm tinh bột biến tính thay thế châu Âu, nhằm đáp ưng yêu cầu của thị trường Nga hay không?
Nếu các sản phẩm tinh bột biến tính của Trung Quốc hoàn toàn có đủ khả năng thay thế các sản phẩm từ châu Âu tại thị trường Nga, điều này cho thấy công nghệ của Trung Quốc có thể sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, vì vậy việc họ mở rộng thị trường và cạnh tranh với các nhà sản xuất từ Thái Lan và châu Âu chỉ là vấn đề thời gian.
Có thể nói, nếu Trung Quốc có khả năng sản xuất ra các loại máy móc, dây chuyền công nghệ cao, việc hợp tác với Việt Nam có thể tạo ra ưu thế cạnh tranh trước các doanh nghiệp Thái Lan, kể cả những doanh nghiệp liên doanh Thái-Nhật.
Trong quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc cho đến nay đã chứng minh rằng với bất kỳ ngành nghề nào, đặc biệt là những ngành nghề mà Trung Quốc còn chịu phụ thuộc vào nhập khẩu, họ đều có khả năng về tài chính, kỹ thuật và nhân lực, để “copy”, cải tiến, và làm chủ công nghệ.
Không chỉ những sản phẩm công nghệ cao từ các quốc gia phát triển mà Trung Quốc có tham vọng sản xuất, ngay cả những sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế thấp của Việt Nam cũng dần được Trung Quốc “nội địa hoá”, như trái thanh long, sầu riêng, v.v..
Ví dụ, đến cuối năm 2023, diện tích trồng thanh long ở Trung Quốc là 67.000 ha, sản lượng đạt 1,6 triệu tấn, vượt qua Việt Nam (diện tích 55.000 ha, sản lượng trên 1,2 triệu tấn). Xuất khẩu thanh long của Việt Nam từng được ví như “bỏ trứng vào một giỏ” do phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, nay lại không thể vào được EU do gặp phải những rào cản về tiêu chuẩn chất lượng.
Nhìn vào biểu đồ xuất khẩu của Trung Quốc cho thấy, các doanh nghiệp Trung Quốc đã có khả năng làm chủ kỹ thuật, công nghệ, và máy móc trong sản xuất các loại tinh bột biến tính chất lượng cao. Tại Việt Nam, doanh nghiệp Trung Quốc là công ty Ming Yang đã xây dựng ba nhà máy sản xuất các loại tinh bột biến tính, tinh bột tiền hồ hoá, hạt chân trâu để xuất khẩu về Trung Quốc và khắp thế giới.
Nhu cầu về tinh bột và tinh bột biến tính của Trung Quốc sẽ ngày càng lớn, sẽ khiến các doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách tăng lợi nhuận và giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ có hai lựa chọn, trồng cây sắn trong nước, hoặc xây dựng các nhà máy sản xuất tại các quốc gia trồng sắn như Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia, hoặc Indonesia.
Việc trồng cây sắn tại Trung Quốc đòi hỏi vốn, thời gian, thổ nhưỡng, và đặc biệt là nguồn nhân lực, điều này cực kỳ khó khăn. Vì vậy, Trung Quốc sẽ không tính đến phương án trồng sắn để sản xuất trong nước, phương án xây dựng nhà máy tại các quốc gia trồng sắn để tận dụng nguồn nguyên liệu giá rẻ sẽ được Trung Quốc ưu tiên hơn.
Nếu nhìn vào bài học từ Thái Lan và Nhật Bản, cũng tương tự như Việt Nam và Trung Quốc. Sự hợp tác giữa Thái Lan và Nhật Bản đã tạo ra lợi ích cho cả hai quốc gia. Doanh nghiệp Thái Lan có nguồn vốn, công nghệ, và thị trường Nhật Bản, trong khi doanh nghiệp Nhật Bản có được lợi ích từ nguồn nguyên liệu. Từ nền tảng này, sản phẩm tinh bột liên doanh Thái-Nhật chinh phục hoàn toàn thị trường Nhật Bản, làm bước đệm nhảy vào các thị trường rộng lớn hơn.
Nếu doanh nghiệp Trung Quốc nhìn ra bài học này, họ cần liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam để chiếm trọn thị trường Trung Quốc, rồi từ đó làm bước đệm để nhảy vào các thị trường khác.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy thương nhân Trung Quốc đã hợp tác với các nhà xưởng ở Việt Nam để gia công cho họ xuất khẩu về đại lục trong nhiều năm qua, tuy nhiên các mô hình nhà xưởng hợp tác này đa phần có quy mô nhỏ và thiếu chuyên nghiệp.
Mô hình hợp tác kiểu này sẽ tiếp tục diễn ra khi có đủ các yếu tố thuận lợi, trong đó yếu tố quan trọng nhất là doanh nghiệp Trung Quốc đủ lớn, và doanh nghiệp Việt Nam sẵn sàng cho việc hợp tác với Trung Quốc.
Nếu yếu tố doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng, vẫn sẽ có doanh nghiệp Trung Quốc xây dựng nhà máy tại Việt Nam, nhưng họ không có khả năng quản lý và thu mua nguyên liệu giá rẻ, mà phải phụ thuộc nguyên liệu từ một nhà cung cấp bản địa nào đó, như công ty Ming Yang chẳng hạn.
Trong số các quốc gia trồng sắn, Việt Nam là lựa chọn số một do ba yếu tố là gần Trung Quốc, văn hoá tương đồng, và vị trí địa lý chiến lược. Trung Quốc sẽ không chọn Thái Lan do hầu hết doanh nghiệp Thái Lan đã liên doanh với Nhật Bản. Trung Quốc cũng không chọn Indonesia do điều kiện khí hậu và năng suất của Indonesia không thuận lợi bằng Việt Nam. Trung Quốc cũng không chọn Lào và Campuchia do rào cản về cơ sở hạ tầng và vận tải.
Mặc dù Việt Nam ở vị trí gần hơn, giá tinh bột rẻ hơn, nhưng nhiều nhà nhập khẩu Trung Quốc vẫn lựa chọn tinh bột Thái Lan có giá thành cao hơn, vận chuyển lâu hơn, do tinh bột Thái Lan có chất lượng cao hơn, đáp ứng nhiều tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt.
Doanh nghiệp Nhật Bản hưởng lợi rất lớn từ xuất khẩu Trung Quốc thông qua các doanh nghiệp liên doanh Thái-Nhật từ hàng chục năm qua.
Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc có thể liên doanh với Việt Nam để xây dựng các nhà máy công nghệ cao, cho ra sản phẩm chất lượng cao, có tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt, họ có thể thay thế nguồn cung Thái Lan bằng Việt Nam, với giá thành rẻ hơn do giảm được các chi phí vận chuyển. Hơn nữa, nhờ liên doanh với Việt Nam, doanh nghiệp Trung Quốc cũng có thêm lợi nhuận từ chính việc xuất khẩu về Trung Quốc.
Trong hàng chục năm qua, do liên doanh với Thái Lan, 99,1% tinh bột nhập của Nhật Bản được nhập khẩu từ Thái Lan. Nếu Trung Quốc áp dụng mô hình liên doanh này, họ có thể đạt được lợi ích rất lớn giống như các doanh nghiệp Nhật Bản, lợi ích này là:
Tiếp tục nhìn vào mô hình liên doanh Thái Lan và Nhật Bản, các doanh nghiệp Thái Lan nhờ có nền tảng vốn và công nghệ Nhật Bản, họ cho ra các sản phẩm chất lượng cao đảm bảo tiêu chuẩn khắt khe, đây là nền tảng và bàn đạp giúp họ đi vào thị trường các quốc gia khác.
Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn Thái Lan. Về mặt địa lý, vận chuyển từ Việt Nam đến các quốc gia là thị trường chính của Thái Lan như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Indonesia, Australia, v.v.. đều gần hơn rất nhiều so với vận chuyển từ Thái Lan. Điều này làm giảm chi phí vận chuyển, và tăng tốc độ giao hàng.
Author: Nguyen Bao Nguyen,
Nhà sản xuất và phân phối Tinh bột Khoai mì hàng đầu tại Việt Nam IFDSTARCH